Nội dung bài viết gồm:
- Chỉ số EV/EBIT và EV/EBITDA là gì?
- Công thức tính chỉ số EV/EBIT và EV/EBITDA
- Ý nghĩa của chỉ số EV/EBIT và EV/EBITDA
- EV/EBIT và EV/EBITDA bao nhiêu là tốt?
I. Chỉ số EV/EBITDA – EV/EBIT là gì?
Chỉ số EV/BITDA và EV/EBIT là 2 trong nhiều chỉ số định giá cổ phiếu khi bạn tham gia thị trường chứng khoán.
Nhưng đây cũng là 2 chỉ báo ít được sử dụng phổ biến tại thị trường chứng khoán Việt Nam.
Tuy nhiên trên thế giới, có rất nhiều nhà đầu tư sử dụng chỉ số này ví dụ như: Joel Greenblatt
II. Cách tính EV/EBIT và EV/EBITDA
Trong đó:
- EV: Là giá trị doanh nghiệp.
- EBIT: Là lợi nhuận trước lãi vay và thuế
- EBITDA: Là Lợi nhuận trước thuế, lãi vay và khấu hao
Cụ thể hơn:
- EV (giá trị doanh nghiệp) = Vốn hóa thị trường + Tổng nợ – Tiền mặt
- EBITDA = Lợi nhuận thuần trước thuế + Chi phí lãi vay + Khấu hao
- EBIT = Lợi nhuận trước thuế + Chi phí lãi vay
Tuy nên để hiểu đúng bản chất nhất về EBIT là gì? (Bạn xem tại đây) hay EBITDA là gì (Bạn xem tại đây)
III. Ý nghĩa khi sử dụng chỉ số EV/EBIT và EV/EBITDA là gì?
Trong các chỉ số định giá cơ bản như P/E, P/B, P/S thì có thể nói 2 chỉ số EV/EBIT và EV/EBITDA có sự gần giống với chỉ số P/E nhất. Tuy nhiên điểm khác biệt của chúng cũng rất rõ rệt:
EV/EBIT loại bỏ sự thay đổi trong cơ cấu vốn, nhằm giúp nhà đầu tư có cái nhìn chính xác hơn khi các doanh nghiệp có cấu trúc vốn khác nhau, hiểu đơn giản là quy đồng mẫu những công ty có mức nợ và tiền mặt khác nhau.
EV/EBITDA thì mạnh dạn hơn loại bỏ sự thay đổi trong cơ cấu vốn, và khấu hao nhằm giúp nhà đầu tư có cái nhìn chính xác hơn khi các doanh nghiệp có cấu trúc vốn khác nhau, hay ngành khác nhau.
IV. Ưu điểm và nhược điểm của chỉ số EV/EBIT và EV/EBIDA
Ưu điểm:
- Được sử dụng phổ biến với những NĐT chuyên nghiệp
- Hoạt động tốt để định giá ở những doanh nghiệp ổn định, và chi phí vốn thấp
- Có giá trị so sánh tương đối tốt ở những loại hình doanh nghiệp khác nhau
Nhược điểm:
- Không tính đến chi phí vốn
- Khó tính toán khi có những tăng trưởng biến động, khác nhau
- Hiện NĐT cá nhân tự tính toán, vì chưa phổ biến ở TTCK Việt Nam.
V. 11 bước để tính các chỉ số EV/EBIT và EV/EBITDA hiệu quả nhất.
Học nhanh không gì bằng thực hành. Nên Ngọ sẽ hướng dẫn bạn cách tính sao cho tối ưu nhất. Bạn có thể tính nhanh từng năm, từng công ty, nhưng Ngọ hướng dẫn cho bạn 10 bước để tính chỉ số này đúng và hiệu quả:
1. Hãy chọn một ngành cụ thể. Ví dụ như tiêu dùng nhanh (VNM, QNS, MSN…), ngành dược, bất động sản…
2. Chọn ra tầm 5 công ty để dễ so sánh (càng nhiều càng tốt)
3. Loại bỏ nhiễu (do quá khác biệt, hay hỗn hợp kinh doanh nhiều sản phẩm, độc quyền địa phương…)
4. Thu thập dữ liệu tài chính 3 năm (5 năm càng tốt) như: Doanh thu lợi, lợi nhuận gộp, EPS, chi phí lãi vay, khấu hao…
5. Thu thập dữ liệu tài chính hiện tại như Vốn hóa thị trường, nợ, tiền mặt…
6. Tính EV = Vốn hóa thị trường + Tổng nợ – Tiền mặt
7. Tính EBITDA hoặc EBIT theo công thức
-
EBITDA = Lợi nhuận thuần trước thuế + Chi phí lãi vay + Khấu hao
-
EBIT = Lợi nhuận trước thuế + Chi phí lãi vay
Bạn chưa biết cách tính EBIT, EBITDA từ bảng báo cáo tài chính thì đọc đọc: Cách tính EBIT, cách tính EBITDA
8. Chia EV cho EBIT hoặc EBITDA
9. So sánh chỉ số EV/EBIT hoặc EV/EBITDA của các công ty từng nhóm ngành
10. Xem xét các lý do tại sao EV/EBIT hoặc EV/EBIT lại cao hoặc thấp
11. Đưa ra lựa chọn những công ty phù hợp với tiêu chí định giá
Để tối ưu được hiệu quả đầu tư, và định giá chính xác nhất hãy tham gia khóa học chứng khoán của Ngọ
VI. EV/EBIT và EV/EBITDA bao nhiêu là tốt?
Thông thường, 2 chỉ số EV/EBIT và EV/EBIDA dưới 10 được xem là tốt. Tuy nhiên bạn cũng cần chú ý:
So sánh 2 công ty này trong cùng 1 ngành sẽ cho cái nhìn khách quan và chuẩn xác nhất, nên bạn không máy móc hoàn toàn. EV/EBIT hay EV/EBITDA cao có thể do công ty được quá giá trị, nhưng cũng có thể do doanh nghiệp chất lượng tốt, và tăng trưởng ổn định. EV/EBIT hay EV/EBITDA thấp có thể là công ty đinh giá thấp nhưng cũng có thể chất lượng doanh nghiệp kém, nhiều rủi ro.
Nếu các yếu tố khác như nhau thì, EV/EBIT hay EV/EBITDA càng thấp càng tốt.
Tối ưu nhất nên kết hợp với các yếu tố định giá khác
Người viết: Nguyễn Hữu Ngọ